Giải đáp một số vấn đề vướng mắc về chuyên môn trong quá trình giảng dạy môn Kỹ năng xét xử vụ án hình sự



Tại cuộc họp ngày 3/11/2011, Bộ môn Hình sự Khoa Đào tạo Thẩm phán đã thảo luận và thống nhất phương án giải đáp một số vấn đề vướng mắc về chuyên môn trong quá trình giảng dạy môn Kỹ năng xét xử vụ án hình sự thời gian vừa qua như sau:
1. Trong phần quyết định của bản án hình sự chỉ viện dẫn các quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự hay viện dẫn cả các văn bản dưới luật, Nghị quyết hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao?
Trả lời: Trong phần quyết định của bản án hình sự chỉ viện dẫn các quy định liên quan trong Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự; không viện dẫn quy định trong các văn bản dưới luật như Nghị quyết hướng dẫn thi hành BLHS, BLTTHS của Tòa án nhân dân tối cao. Tuy nhiên, đối với vấn đề án phí, văn bản pháp luật quy định cụ thể có hiệu lực cao nhất là Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án (ngày 27/2/2009) nên sẽ viện dẫn Pháp lệnh này.
2. Thái độ khi điều hành phiên tòa của Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa đối với những người tham gia tố tụng là như nhau hay có sự khác biệt giữa bị cáo với người bị hại và những người tham gia tố tụng khác?
Trả lời: Điều 5 BLTTHS quy định nguyên tắc “mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”. Mặt khác, bị cáo chỉ bị coi là có tội khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, việc điều hành phiên tòa của Thẩm phán phải đảm bảo sự bình đẳng, khách quan, không phân biệt giữa bị cáo với những người tham gia tố tụng khác. Trong một số trường hợp đặc biệt như bị cáo, người bị hại là người chưa thành niên, thái độ, giọng nói của Chủ tọa phiên tòa có thể nhẹ nhàng hơn để phù hợp với đặc điểm tâm lý lứa tuổi của những người tham gia tố tụng này.
3. Nên phân định bản án hình sự sơ thẩm thành bản án chính, bản án gốc, bản sao bản án như hướng dẫn tại Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP  ngày 5/11/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hay chỉ có bản án và bản sao bản án theo quy định của BLTTHS?
Trả lời: Theo điểm 2.2 mục 2 phần IV Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP cùng với biên bản nghị án, bản án gốc phải được các thành viên Hội đồng xét xử thông qua và ký (chữ ký “sống”) tại phòng nghị án, được lưu vào hồ sơ vụ án; trên cơ sở bản án gốc, Thẩm phán chủ toạ phiên toà thay mặt Hội đồng xét xử ký các bản án chính và Toà án thực hiện việc giao bản án theo quy định tại Điều 229 của BLTTHS. Hướng dẫn này không trái với quy định của BLTTHS đồng thời tạo thuận lợi cho công tác quản lý, giao nhận bản án (tránh những trường hợp đã xảy ra trên thực tiễn như có hai bản án cùng số, cùng ngày, cùng HĐXX nhưng nội dung khác nhau, không xác định được đâu là bản án gốc, thể hiện quan điểm của HĐXX tại phiên tòa). Vì vậy, khi giảng dạy và học tập cần thống nhất theo hướng dẫn về bản án gốc, bản án chính tại Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP.
4. Biên bản nghị án dùng cho Hội đồng xét xử sơ thẩm theo mẫu số 05d (ban hành kèm theo Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 5/11/2004 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao) hướng dẫn cần ghi kết quả biểu quyết của Hội đồng xét xử về từng vấn đề như tội danh, điều, khoản, điểm BLHS cần áp dụng, mức hình phạt, các vấn đề khác. Có quan điểm cho rằng cách ghi này khá rườm rà và có thể ghi chung một số vấn đề như tội danh, điều khoản BLHS cần áp dụng và kết quả biểu quyết chung của HĐXX đối với các vấn đề này.
Trả lời: Hướng dẫn tại Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP là hướng dẫn chung cho tất cả các vụ án nên cần rất cụ thể về từng vấn đề của vụ án. Về nguyên tắc, việc ghi biên bản nghị án cần theo mẫu nêu trong Nghị quyết này. Tuy nhiên, trên thực tiễn, nếu tỉ lệ biểu quyết nhất trí của HĐXX về một số vấn đề như tội danh, điều khoản BLHS cần áp dụng giống nhau thì có thể ghi gộp và không bị coi là vi phạm.
Ví dụ: Về tội danh và điều khoản BLHS cần áp dụng: Tội Cố ý gây thương tích theo điểm i, khoản 1 Điều 104 BLHS. Kết quả biểu quyết: 3/3.
Trường hợp tỉ lệ biểu quyết nhất trí của HĐXX về các vấn đề là khác nhau thì cần ghi tách biệt, thể hiện rõ tỉ lệ biểu quyết đối với từng vấn đề.
Ví dụ: Về tội danh: Tội Cướp tài sản. Kết quả biểu quyết: 3/3
Về điều khoản cần áp dụng: điểm a,d khoản 2 Điều 133 BLHS. Tỉ lệ biểu quyết: 2/3;
điểm a, khoản 2 Điều 133 BLHS. Tỉ lệ biểu quyết: 1/3
5. Sau khi HĐXX nghị án ra chuẩn bị tuyên án thì phát hiện KSV và bị cáo tại ngoại không còn có mặt tại phiên tòa. Trường hợp này, HĐXX cần xử lý như thế nào?
Trả lời: Trước tiên, HĐXX cần hội ý, xác định lý do vắng mặt của Kiểm sát viên và bị cáo. Về cơ bản, nếu không có vấn đề gì vướng mắc về nội dung cần quay lại xét hỏi, thì HĐXX có thể tiếp tục tuyên án. Sự vắng mặt của bị cáo ở thời điểm này không cản trở việc xét xử và cũng không ảnh hưởng đến quyền kháng cáo của bị cáo (thời hạn kháng cáo của bị cáo được tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết). Đối với KSV, KSV có nghĩa vụ có mặt trong toàn bộ phiên tòa, việc KSV tự ý vắng mặt là không thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình; hơn nữa, sự vắng mặt của KSV ở thời điểm này không cản trở việc xét xử và Viện kiểm sát vẫn thực hiện được quyền giám sát việc tuân theo pháp luật trong bản án sơ thẩm thông qua việc được giao bản án và thực hiện quyền kháng nghị đối với bản án sơ thẩm.
Trường hợp sau khi nghị án chưa thể tuyên án ngay mà cần quay trở lại phần xét hỏi để làm rõ một số vấn đề trong vụ án, nếu phát hiện thấy vắng mặt bị cáo, KSV thì cần hoãn phiên tòa để đảm bảo sự có mặt của những người này tại phiên tòa phục vụ cho việc làm sáng tỏ sự thật vụ án.

6. Theo bản cáo trạng, bị cáo A đã thực hiện 02 hành vi cướp tài sản ngày 3/3/2011 và 4/5/2011; bị cáo bị Viện kiểm sát truy tố về tội Cướp tài sản theo khoản 1 Điều 133 và áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội nhiều lần theo điểm g, khoản 1 Điều 48 BLHS. Khi nghiên cứu hồ sơ, Thẩm phán thấy bị cáo chỉ thực hiện hành vi Cướp tài sản vào ngày 3/3/2011 còn hành vi ngày 4/5/2011 là Cướp giật tài sản. Trường hợp này, Thẩm phán cần xử lý như thế nào, có thể xét xử và tuyên án đối với bị cáo về hai tội Cướp tài sản và Cướp giật tài sản hay không?
Trả lời: Với kết quả nghiên cứu hồ sơ như trên, Thẩm phán cần ra quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung (căn cứ điểm b, khoản 1 Điều 179 BLHS). Nếu Viện kiểm sát không thay đổi quan điểm truy tố, Thẩm phán mở phiên tòa xét xử đối với bị cáo và chỉ tuyên bị cáo phạm tội Cướp tài sản với hành vi ngày 3/3/2011, không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội nhiều lần. Trong phần xét thấy của bản án sơ thẩm, khi nhận định về hành vi phạm tội của bị cáo, Thẩm phán nhận định hành vi ngày 3/3/2011 của bị cáo cấu thành tội Cướp tài sản; hành vi ngày 4/5/2011 có dấu hiệu của tội Cướp giật tài sản song Viện kiểm sát không truy tố đối với bị cáo về tội này nên theo Điều 196 BLTTHS Tòa án không xét xử đối với hành vi đó. Sau phiên tòa, Thẩm phán báo cáo Chánh án kiến nghị giám đốc thẩm để xem xét đối với hành vi Cướp giật tài sản của bị cáo.
Trên đây là quan điểm của Bộ môn Hình sự, Khoa Đào tạo Thẩm phán đối với một số vấn đề vướng mắc về chuyên môn trong quá trình giảng dạy lớp đào tạo Nghiệp vụ xét xử khóa XIII thời gian vừa qua. Các vấn đề vướng mắc khác, đề nghị Giảng viên, Học viên trao đổi trực tiếp với Bộ môn hoặc gửi qua email: xetxuhinhsu2011@gmail.com. Trân trọng cảm ơn!
KT. TRƯỞNG BỘ MÔN HÌNH SỰ
PHÓ TRƯỞNG BỘ MÔN

ThS. Nguyễn Thanh Mai


Share this post :

Đăng nhận xét

Tin tức

 
Support : Vietnamlawyer | Svlaw | Hoidapluatsu
Copyright © 2011. Trang tin điện tử Lớp Luật sư - All Rights Reserved
Template Created by Creating Website Published by Nam Nguyen Gia
Proudly powered by Blogger