6 Câu hỏi có gợi ý trả lời môn Luật sư và nghề Luật sư

Download the original attachment

1.      So sánh Luật sư và Luật gia?
Hai thuật ngữ “luật gia” và “luật sư” hiện nay ở Việt Nam vẫn còn được hiểu khác nhau và còn có sự nhầm lẫn. Nguyên nhân của hiện tượng này một mặt là do hệ thống luật pháp nói chung và các nghề nghiệp về tư pháp ở Việt Nam nói riêng chưa phát triển; mặt khác có hiện tượng này cũng một phần do việc dịch các thuật ngữ có liên quan trong ngôn ngữ nước ngoài chưa chuẩn xác, chưa thống nhất.
Theo cách giải thích của nhiều từ điển và qua tìm hiểu thực tiễn của một số nước, chúng tôi thấy có thể hiểu như sau:
- Jurist = luật gia, là người có kiến thức về pháp luật, chuyên gia luật. Có thể hiểu đó là tất cả những người tốt nghiệp đại học luật (cử nhân luật trở lên); hoặc vận dụng ở ta có thể bao gồm cả những người tuy không có bằng cử nhân luật, nhưng có kiến thức về pháp luật và đang hoạt động trên các lĩnh vực pháp luật, tư pháp, trong đó có cả các luật sư. Hội viên Hội luật gia Việt Nam được hiểu theo nghĩa này.
- Lawyer = luật sư, là luật gia được đào tạo thêm về kỹ năng hành nghề, được gia nhập Đoàn luật sư, qua đó được công nhận là luật sư để hành nghề chuyên nghiệp trong lĩnh vực tranh tụng và tư vấn pháp luật hoặc một trong hai lĩnh vực này.
Tương đương với 2 thuật ngữ tiếng Anh “jurist” và “lawyer” là 2 thuật ngữ trong tiếng Pháp: juriste (luật gia) và avocat (luật sư, trạng sư).
Ở Việt Nam luật sư được hiểu theo quy định của Luật Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (Điều 2). Điều kiện hành nghề luật sư là được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư.
Như vậy, ở nước ta luật sư có thể là thành viên Hội luật gia, nhưng luật gia thì chưa hẳn đã phải là luật sư. Sự khác biệt đó còn thể hiện ở các điểm sau đây:
- Một trong những tiêu chuẩn quan trọng, không thể thiếu đối với luật sư là phải được đào tạo nghề sau khi đã tốt nghiệp đại học luật.
- Chức năng của luật sư là cung cấp dịch vụ pháp lý cho cá nhân, tổ chức, bao gồm việc tham gia tố tụng để bào chữa hoặc biện hộ cho bị can, bị cáo, đương sự; tư vấn pháp luật cho cá nhân, tổ chức và làm các dịch vụ pháp lý khác.
- Sứ mệnh xã hội của luật sư là góp phần bảo vệ công lý, công bằng xã hội và pháp chế xã hội chủ nghĩa.
- Luật sư độc lập, tự chịu trách nhiệm trong hành nghề, trong đó có trách nhiệm bồi thường thiệt hại vật chất mà luật sư gây ra cho khách hàng; trách nhiệm vật chất của luật sư là trách nhiệm vô hạn.
- Ngoài việc phải tôn trọng và tuân thủ pháp luật, luật sư còn phải tuân theo các quy tắc hành nghề, trong đó có các quy tắc đạo đức nghề nghiệp do tổ chức hiệp hội luật sư ban hành.
- Nguồn thu nhập của luật sư là tiền thù lao do khách hàng trả.


2.     Vai trò về mặt xã hội của Luật sư?
a. Vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền của bị can, bị cáo và các đương sự trước Toà
Trong lịch sử, vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và các đương sự trước Toà không phải ở mọi lúc, mọi nơi được tôn trọng. Ở những nước mà mối quan hệ giữa con người với con người bị ảnh hưởng của tâm linh, thần cảm thì nghề luật sư chậm phát triển. Ví dụ như ở các nước Hồi giáo nghề luật sư ít phát triển thậm chí không có nghề luật sư.
Nghề luật sư được phát triển và giữ vai trò quan trọng trong các nước dân chủ, phát triển. Để bảo đảm công lý các bên khi tham gia tố tụng đều có sự giúp đỡ từ phía những nhà chuyên nghiệp là luật sư. Theo quan điểm của luật sư phương Tây thì luật sư khi tham gia bảo vệ quyền lợi cho khách hàng, cho cá nhân, phải đặt quyền lợi của cá nhân cao hơn hoặc bằng quyền lợi của cộng đồng xã hội.
Vai trò của luật sư có sự khác nhau trong các nền văn minh khác nhau. Ở Nhật Bản trước đây các quan hệ trong xã hội được điều chỉnh bằng tập quán, đề cao sự hoà thuận, tránh cưỡng ép. Các quy phạm với chế tài là sự hổ thẹn và trách cứ đủ để duy trì trật tự xã hội ở Nhật Bản. Tuy nhiên ở Nhật Bản vào cuối thế kỷ 19 và đặc biệt là sau đại chiến thế giới lần thứ II vai trò của pháp luật đã được thừa nhận trong xã hội Nhật Bản, nghề luật sư đã được hình thành và ngày càng phát triển.
Tuỳ theo quốc gia khác nhau mà pháp luật có vai trò quan trọng khác nhau. Ở Pháp trong một thời gian dài pháp luật chỉ đóng vai trò thứ yếu. Pháp luật chỉ tồn tại ở khía cạnh luật nội dung mà không có luật hình thức, luật nội dung không có bảo đảm của luật tố tụng, pháp luật tồn tại bên ngoài Toà án, bên ngoài các vụ kiện. Cái mà được gọi là pháp luật lại đối lập với tư pháp và không được mọi người quan tâm. Các nhà doanh nghiệp chỉ quan tâm đến khía cạnh thương mại của một hợp đồng mà không quan tâm đến khía cạnh pháp lý của nó. Pháp luật chưa được xã hội tôn trọng
Trên thế giới, nghề luật sư được tổ chức theo nhiều hình thức và rất đa dạng. Sự đa dạng này xuất phát từ đặc thù lịch sử, văn hóa, cách suy nghĩ cũng như hệ thống pháp luật của mỗi nước. Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về nghề luật sư nhưng đều có chung một điểm cho rằng, luật sư là một nghề trong xã hội, là công cụ hữu hiệu góp phần đảm bảo công lý. Nghề luật sư rất chú ý đến vai trò cá nhân, uy tín nghề nghiệp của luật sư và tính chất của nghề tự do trong tổ chức hành nghề luật sư.
Tại Việt Nam, luật sư có nhiệm vụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức và gốp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Trong cuộc sống hàng ngày công dân thường có nhiều mối quan hệ với nhau và với cơ quan, tổ chức. Những mối quan hệ này nhiều khi phát sinh những mâu thuẫn, động chạm đến quyền lợi của mỗi bên. Đặc biệt là những vấn đề phải giải quyết bằng con đường Tòa án mà ở đây những quyền cơ bản của công dân dễ bị đụng chạm nhất. Thường công dân bị hạn chế bởi trình độ văn hóa, sự hiểu biết pháp luật nên khó có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình một cách đầy đủ và toàn diện. Tổ chức luật sư được thành lập để giúp cho công dân về mặt pháp lý. Luật sư là người am hiểu pháp luật có kinh nghiệm trong hoạt động pháp luật, là người giúp cho công dân về mặt pháp lý có hiệu quả nhất khi có những vụ việc xảy ra liên quan đến pháp luật, nhất là những vụ việc ở Tòa án.
Trong thời gian qua, hoạt động tham gia tố tụng của luật sư đã bảo đảm thực hiện tốt nguyên tắc tranh tụng tại phiên toà, góp phần quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của cải cách tư pháp. Thực tiễn thời gian qua cho thấy, việc tham gia tố tụng của các luật sư không những bảo đảm tốt hơn quyền bào chữa của bị can, bị cáo, các đương sự khác, mà còn giúp các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, sửa chữa những thiếu sót, làm rõ sự thật khách quan, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thông qua hoạt động bào chữa, tranh tụng tại Tòa án, luật sư đã góp phần làm giảm thiểu các vụ án oan, sai, đã xuất hiện nhiều tấm gương luật sư xuất sắc trên diễn đàn “Pháp đình”, vị thế của luật sư trong xã hội cũng ngày càng được nâng cao.
b. Vai trò của luật sư trong hoạt động tư vấn pháp luật góp phần bảo vệ quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức
Luật sư trước hết là một chuyên gia pháp luật, là một cố vấn pháp luật mà ở họ có những kỹ năng nghề nghiệp thực thụ. Để công chúng, các nhà kinh doanh tuân thủ pháp luật và tin tưởng vào sự công bằng, bình đẳng của pháp luật thì những người hành nghề luật sư phải tự mình tôn trọng pháp luật. Đó là lý do vì sao nghề luật sư phải được pháp luật điều chỉnh chặt chẽ để duy trì lòng tin của xã hội và giới kinh doanh. Ngoài những quy định trên còn có những quy tắc nghề nghiệp bổ sung cho các quy định của pháp luật.
Bên cạnh hoạt động tranh tụng, luật sư còn nhận làm tư vấn pháp luật cho cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước bằng hình thức ký kết hợp đồng dịch vụ pháp lý. Luật sư thực hiện tư vấn trong nhiều lĩnh vực pháp luật, soạn thảo các văn bản pháp luật, soạn thảo di chúc, hợp đồng mua bán tài sản, hợp đồng kinh tế, hợp đồng mua bán bất động sản, soạn thảo giấy tờ pháp lý của công ty... Lĩnh vực hoạt động soạn thảo văn bản có liên quan đến pháp luật là một lĩnh vực hoạt động quan trọng trong hoạt động tư vấn pháp luật của luật sư. Luật sư còn hướng dẫn khách hàng về những vấn đề có liên quan đến pháp luật, quyền của họ được pháp luật quy định và cách xử sự theo đúng pháp luật. Việc tư vấn pháp luật cho khách hàng của luật sư góp phần không nhỏ trong việc giải quyết những tranh chấp xảy ra trong đời sống xã hội, ngăn chặn được những hành vi vi phạm pháp luật, giảm bớt phiền hà cho cơ quan nhà nước khi người dân thiếu hiểu biết pháp luật đi khiếu nại không đúng cơ quan có thẩm quyền.
Hoạt động tư vấn pháp luật và dịch vụ pháp lý khác của luật sư là một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh minh bạch, lành mạnh theo đúng pháp luật, đồng thời hỗ trợ tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển thị trường dịch vụ, tăng thu ngân sách, giải quyết việc làm; góp phần bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp cả ở nước ngoài. Sự tham gia tích cực của các luật sư trong dự án đầu tư, các giao dịch kinh doanh, thương mại không chỉ góp phần phát huy nội lực mà còn thu hút ngoại lực, thúc đẩy hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
c. Vai trò của luật sư trong việc tham gia tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Là người hiểu biết pháp luật, thông qua việc hành nghề, luật sư góp phần tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho cộng đồng xã hội.
Thông qua t chức xã hội ngh nghiệp của mình, luật sư có trách nhiệm tham gia tham gia xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Luật sư đóng một vai trò quan trọng trong việc góp phần bảo vệ quyền cơ bản của công dân và phát triển xã hội. Cùng với thời gian, đội ngũ luật sư Việt Nam dần dần khẳng định rõ vị trí, vai trò của mình trong xã hội. Luật sư với tư cách là người có kiến thức sâu, rộng về pháp luật có chức năng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, tham gia tích cực trong việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, cần phải khẳng định mình hơn nữa trong công cuộc xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh ở Việt Nam.
3.      Phân tích các hành vi bị cấm khi hành nghề Luật sư?
Theo quy định của pháp luật tố tụng, quyền của luật sư trong hành nghề được mở rộng đáng kể, Luật Luật sư cũng tạo cơ chế thuận lợi cho luật sư trong việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên, Luật Luật sư cũng tạo cơ chế pháp lý để tăng cường trách nhiệm pháp lý, nâng cao kỷ luật, đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư trong hành nghề. Đây cũng là định hướng quan trọng đối với việc xây dựng Luật Luật sư.  
Các hành vi bị nghiêm cấm đối với luật sư được quy định tại Điều 9, Chương “Những quy định chung” của Luật Luật sư. Luật sư thực hiện một trong các hành vi bị nghiêm cấm thì ngoài việc bị xử lý kỷ luật còn tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật dân sự. Trong các hành vi bị nghiêm cấm đối với luật sư quy định tại Điều 9 của Luật Luật sư có thể phân thành ba nhóm sau đây:
- Nhóm thứ nhất liên quan đến những nghĩa vụ cơ bản của luật sư trong hành nghề. Những nghĩa vụ cơ bản này không những được pháp luật quy định mà còn là một nội dung quan trọng của quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư, cụ thể là mâu thuẫn quyền lợi (điểm a khoản 1), bí mật thông tin (điểm c khoản 1), trung thực, bảo vệ tốt nhất lợi ích của khách hàng (điểm d và đ khoản 1).
- Nhóm thứ hai liên quan đến hoạt động của cơ quan nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng. Những quy định cấm này nhằm bảo đảm hoạt động của cơ quan nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng được thực hiện theo đúng pháp luật, góp phần phòng ngừa những hiện tượng tiêu cực trong thi hành công vụ (điểm b và điểm c khoản 1).
- Nhóm thứ ba liên quan đến việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân (điểm g khoản 1).
Cùng với việc quy định các hành vi bị nghiêm cấm đối với luật sư, khoản 2 Điều 9 cũng nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi cản trở hoạt động hành nghề của luật sư. Quy định này nhằm tạo cơ chế pháp lý hữu hiệu để luật sư thực hiện được đầy đủ quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình trong hành nghề. Đây cũng là một trong những điểm tiến bộ của Luật Luật sư.


4.      Tại sao Luật luật sư cho phép hoạt đồng hành nghề tổ chức Luật sự được lựa chọn nhiều loại hình?
Theo quy định của Pháp lệnh luật sư năm 2001, luật sư chỉ được hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư (thành lập hoặc tham gia thành lập Văn phòng luật sư, Công ty luật hợp danh hoặc làm việc theo hợp đồng cho tổ chức hành nghề luật sư, kể cả tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam). Quy định này về cơ bản là phù hợp với thông lệ nghề luật sư và có tính khả thi trong giai đoạn đầu hình thành và phát triển của nghề luật sư. Tuy nhiên, với yêu cầu mở rộng, phát triển dịch vụ pháp lý của luật sư trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra sâu sắc và mạnh mẽ hiện nay, thì quy định về hình thức hành nghề như Pháp lệnh luật sư đã tỏ ra không còn phù hợp. Thực tiễn cho thấy, các cơ quan nhà nước, các tổ chức, đặc biệt là doanh nghiệp đang thực sự có nhu cầu tuyển dụng luật sư làm việc cho mình với tư cách là luật sư riêng (in-house lawyer) để giúp giải quyết những vấn đề pháp lý liên quan. Ngoài ra, xét về tính chất, thì nghề luật sư là một nghề tự do, các luật sư có thể tự do lựa chọn hình thức hành nghề phù hợp với năng lực và điều kiện thực tế của mình. Trong hành nghề, luật sư hoạt động độc lập trên cơ sở pháp luật và tuân theo pháp luật. Do đó, ở nhiều nước trên thế giới còn tồn tại cả hình thức luật sư hành nghề với tư cách cá nhân.
Từ thực tiễn nói trên, Luật Luật sư mở rộng hình thức hành nghề của luật sư. Theo đó, luật sư có thể lựa chọn một trong các hình thức hành nghề sau đây:
- Hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư (như quy định của Pháp lệnh luật sư năm 2001);
- Hành nghề với tư cách cá nhân.



5.      Căn cứ và phương thức tính thù lao của Luật sư?
Quy định về thù lao và chi phí luật sư, về cơ bản, phù hợp với những nguyên tắc của Bộ luật dân sự về tiền công trong hợp đồng dịch vụ. Luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức, cơ quan và được nhận một khoản thù lao, được thanh toán các chi phí hợp lý khác do người sử dụng dịch vụ trả. Như vậy, thù lao là khoản tiền bù đắp lại công sức mà luật sư bỏ ra để thực hiện dịch vụ pháp lý. Chi phí luật sư là những khoản tiền mà luật sư phải chi trả trong khi thực hiện dịch vụ pháp lý như: tiền tàu xe, lưu trú, các chi phí hợp lý khác. Khách hàng của luật sư phải trả thù lao và thanh toán chi phí thực tế cho luật sư khi sử dụng dịch vụ pháp lý của luật sư.
Việc tính toán thù lao được dựa trên các căn cứ và phương thức cụ thể. Các căn cứ và phương thức tính thù lao quy định tại Điều 55 Luật Luật sư phù hợp với thông lệ nghề nghiệp luật sư được pháp luật của nhiều nước trên thế giới quy định. Về cơ bản, việc tính mức thù lao được thực hiện trên cơ sở thoả thuận giữa Văn phòng luật sư, Công ty luật, hoặc luật sư hành nghề với tư cách cá nhân (người cung cấp dịch vụ pháp lý) với khách hàng (người sử dụng dịch vụ pháp lý) và được thể hiện trong hợp đồng dịch vụ pháp lý. Tuy nhiên, nguyên tắc thoả thuận về thù lao chỉ được áp dụng đối với vụ việc tư vấn pháp luật, dịch vụ pháp lý khác, vụ việc dân sự.
Thù lao luật sư chỉ áp dụng đối với luật sư hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư và luật sư hành nghề với tư cách cá nhân theo hợp đồng dịch vụ pháp lý. Đối với luật sư hành nghề với tư cách cá nhân làm việc cho cơ quan, tổ chức (tổ chức trợ giúp pháp lý của Nhà nước, cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức khác) theo chế độ hợp đồng lao động thì được hưởng lương theo quy định của pháp luật về lao động.
5.1. Căn cứ tính thù lao
Các căn cứ tính thù lao được quy định tại khoản 1 Điều 55 Luật Luật sư, bao gồm các căn cứ sau đây:
+ Nội dung, tính chất của dịch vụ pháp lý;
+ Thời gian và công sức của luật sư sử dụng để thực hiện dịch vụ pháp lý;
+ Kinh nghiệm và uy tín của luật sư.
Các căn cứ để tính mức thù lao có tính chất định hướng, là cơ sở để khách hàng và Văn phòng luật sư, Công ty luật hoặc luật sư hành nghề với tư cách cá nhân thoả thuận phù hợp với nội dung, tính chất của từng vụ việc cụ thể.
5.2. Phương thức tính thù lao
5.2.1. Phương thức tính thù lao theo giờ làm việc
Thông thường, phương thức tính thù lao theo giờ làm việc của luật sư được áp dụng trong lĩnh vực tư vấn pháp luật. Với phương thức tính thù lao này, việc tính toán cụ thể về thời gian luật sư bỏ ra để thực hiện công việc là căn cứ quan trọng để tính mức thù lao.
5.2.2. Phương thức tính thù lao trọn gói
Phương thức tính thù lao trọn gói là việc tính một mức thù lao cố định cho toàn bộ quá trình giải quyết vụ việc theo yêu cầu của khách hàng. Việc thoả thuận về mức thù lao cố định thường được căn cứ vào nội dung, tính chất công việc cũng như tổng số thời gian dự tính hoàn thành công việc. Phương thức này thường được áp dụng trong các lĩnh vực tham gia tố tụng, thực hiện các dịch vụ pháp lý khác.
5.2.3. Phương thức tính thù lao theo tỉ lệ phần trăm giá ngạch vụ kiện hoặc giá trị hợp đồng, giá trị dự án
Phương thức tính thù lao theo tỉ lệ phần trăm giá ngạch vụ kiện hoặc giá trị hợp đồng, giá trị dự án thường được áp dụng trong lĩnh vực tham gia tố tụng đối với các vụ án dân sự, kinh tế, giao dịch về bất động sản hay tư vấn pháp luật trong các dự án. Thực chất đây cũng là phương thức tính thù lao theo một mức cố định nhưng được căn cứ vào giá ngạch của vụ kiện hoặc giá trị của giao dịch.
5.2.4. Phương thức tính thù lao theo hợp đồng dài hạn với mức thù lao cố định
Phương thức tính thù lao theo hợp đồng dài hạn với mức thù lao cố định được sử dụng khá phổ biến tại các nước có nghề luật sư phát triển. Tổ chức hành nghề luật sư hoặc luật sư hành nghề với tư cách cá nhân chịu trách nhiệm về những vấn đề pháp lý liên quan đến khách hàng của mình. Khách hàng phải trả một khoản thù lao cố định đã được thoả thuận theo định kỳ cho tổ chức hành nghề luật sư hoặc luật sư hành nghề với tư cách cá nhân bất kể trong thời gian đó khách hàng có cần sự giúp đỡ về mặt pháp lý của luật sư hay không. Phương thức này cũng có thể áp dụng đối với trường hợp luật sư có hợp đồng dài hạn để tư vấn pháp luật cho một doanh nghiệp.
Thông thường, trong văn bản thoả thuận giữa luật sư và khách hàng không cần thiết phải liệt kê toàn bộ những căn cứ làm cơ sở cho việc tính thù lao mà chỉ cần nêu phương thức tính thù lao (tính theo giờ, tính cố định hay xác định những yếu tố cần chú ý khi tính thù lao). Khi có những sự kiện mới phát sinh trong quá trình giải quyết vụ việc ảnh hưởng đến mức thù lao đã thoả thuận thì luật sư cần thông báo bằng văn bản cho khách hàng và trong trường hợp cần thiết, luật sư và khách hàng có thể thoả thuận mức thù lao mới phù hợp.
5.3. Thù lao và chi phí luật sư trong trường hợp luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý theo hợp đồng dịch vụ pháp lý
Vấn đề về thù lao, chi phí trong trường hợp luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý theo hợp đồng dịch vụ pháp lý được quy định tại Điều 56 của Luật Luật sư như sau:
1) Mức thù lao được thoả thuận trong hợp đồng dịch vụ pháp lý; đối với vụ án hình sự mà luật sư tham gia tố tụng thì mức thù lao không được vượt quá mức trần thù lao do Chính phủ quy định.
2) Tiền tàu xe, lưu trú và các chi phí hợp lý khác cho việc thực hiện dịch vụ pháp lý do các bên thoả thuận trong hợp đồng dịch vụ pháp lý.
Theo quy định trên thì mức thù lao, chi phí của luật sư khi cung cấp dịch vụ pháp lý theo hợp đồng dịch vụ pháp lý được tính trên cơ cở thoả thuận giữa khách hàng và luật sư trong hợp đồng dịch vụ pháp lý. Đối với các vụ án hình sự mà luật sư tham gia tố tụng thì sự thoả thuận đó không được vượt quá mức trần thù lao do Chính phủ quy định. Mức thù lao này quy ra giờ không được vượt quá 100.000đ/1 giờ làm việc của luật sư (Điều 10 Nghị định số 28/2007/NĐ-CP ngày 26/2/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Luật sư).
Ngoài mức thù lao đã thoả thuận, luật sư được nhận thêm các chi phí như tiền tàu xe, lưu trú và các chi phí hợp lý khác cho việc thực hiện dịch vụ pháp lý. Các chi phí này cũng do các bên thoả thuận trong hợp đồng dịch vụ pháp lý.
5.4. Thù lao, chi phí trong trường hợp luật sư tham gia tố tụng theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng
Theo Điều 11 của Nghị định số 28/2007/NĐ-CP quy định chi tiết và thi hành một số điều của Luật Luật sư thì thù lao, chi phí cho luật sư trong trường hợp luật sư tham gia tố tụng theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng được quy định như sau:
Đối với những vụ án do cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu luật sư thì mức thù lao được trả cho luật sư là 120.000đ/1 ngày làm việc của luật sư.
Thời gian làm việc của luật sư bao gồm:
a) Thời gian gặp gỡ bị can, bị cáo;
b) Thời gian thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa;
c) Thời gian nghiên cứu hồ sơ và chuẩn bị tài liệu tại cơ quan tiến hành tố tụng;
d) Thời gian tham gia phiên toà; 
Thời gian làm việc của luật sư phải được cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trực tiếp giải quyết vụ án xác nhận. 
Ngoài khoản tiền thù lao, trong quá trình chuẩn bị và tham gia bào chữa tại phiên toà, luật sư được thành toán chi phí tiền tàu xe, lưu trú theo quy định hiện hành về chế độ công tác phí cho cán bộ, công chức nhà nước đi công tác trong nước.
Cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu luật sư tham gia tố tụng có trách nhiệm thanh toán theo đúng quy định của nhà nước về thù lao và các khoản chi phí nêu tại khoản 1, khoản 3 Điều này. Nguồn kinh phí chi trả được dự toán trong ngân sách hàng năm của cơ quan tiến hành tố tụng.
Ngoài khoản thù lao và chi phí do cơ quan tiến hành tố tụng thanh toán, luật sư không được đòi hỏi thêm bất cứ khoản tiền nào từ bị can, bị cáo hoặc thân nhân của họ.
Thực tế cho thấy, thời gian luật sư gặp gỡ bị can, bị cáo, nghiên cứu hồ sơ và chuẩn bị tài liệu tại cơ quan tiến hành tố tụng hay thời gian tham gia phiên toà có thể được xác nhận một cách dễ dàng, nhưng việc xác nhận thời gian luật sư thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa lại gặp khó khăn. Vì vậy, luật sư cần lưu giữ tất cả tài liệu có liên quan làm cơ sở cho cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng xác nhận thời gian làm việc của luật sư. Luật sư có thể xin xác nhận của người có thẩm quyền sau đây về thời gian làm việc:
- Quản giáo hoặc người quản lý trại giam về thời gian luật sư gặp gỡ bị can, bị cáo tại trại tạm giam;
- Thẩm phán phụ trách giải quyết vụ án về thời gian luật sư thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa, thời gian nghiên cứu hồ sơ và chuẩn bị tài liệu tại Toà án;
- Chủ toạ phiên toà về thời gian luật sư tham gia phiên toà.
Bên cạnh đó, khi tham gia tố tụng theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, luật sư cần lưu ý về cách thức thanh toán thù lao như sau:
Đối với luật sư hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư thì luật sư đó không được trực tiếp nhận thù lao từ cơ quan tiến hành tố tụng mà phải thông qua tổ chức hành nghề luật sư nơi luật sư đó hành nghề. Tổ chức hành nghề luật sư nhận thù lao phải tuân theo các quy định của pháp luật về kế toán. Trường hợp luật sư hành nghề với tư cách cá nhân thì được quyền nhận thù lao trực tiếp từ cơ quan tiến hành tố tụng. Luật sư nhận thù lao cũng phải chấp hành đúng quy định của pháp luật về thuế, tài chính và thống kê.

6.      Thực trạng và phương hướng phát triển đội ngũ Luật sư hiện nay?
1. Tính đến thời điểm hiện nay, trong cả nước đã thành lập 62/63 Đoàn luật sư, với gần 6.000 luật sư, hơn 2000 người tập sự hành nghề luật sư hoạt động trong gần 2.000 tổ chức hành nghề luật sư. Trong gần 9 năm (2001-2010), số lượng luật sư đã tăng 300% so với trước khi Pháp lệnh luật sư năm 2001 có hiệu lực. Diện mạo luật sư đã có sự thay đổi đáng kể, cùng với sự phát triển về số lượng, chất lượng của đội ngũ luật sư ở nước ta đã và đang từng bước được nâng cao (96,95%) luật sư có trình độ cử nhân luật trở lên; 65,8% luật sư đã qua đào tạo nghề luật sư).
Theo số liệu thống kê trong 4 năm (2005-2008), các luật sư đã tham gia tố tụng hơn 60.000 vụ án hình sự, 30.000 vụ việc về dân sự, gần 2.000 vụ việc về kinh tế, 800 vụ việc về lao động, 1.000 vụ việc về hành chính; gần 90.000 vụ việc về tư vấn pháp luật; 25.000 vụ việc về dịch vụ pháp lý khác.
Bằng hoạt động nghề nghiệp của mình, đội ngũ luật sư không những đã có những đóng góp tích cực cho công tác tư pháp nói chung, hoạt động xét xử nói riêng, mà còn là nhân tố hỗ trợ phát triển các quan hệ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư đã bảo đảm thực hiện tốt nguyên tắc tranh tụng tại phiên toà, góp phần quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của cải cách tư pháp. Thực tiễn thời gian qua cho thấy, việc tham gia tố tụng của các luật sư không những bảo đảm tốt hơn quyền bào chữa của bị can, bị cáo, các đương sự khác, mà còn giúp các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, sửa chữa những thiếu sót, làm rõ sự thật khách quan, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thông qua hoạt động bào chữa, tranh tụng tại Tòa án, luật sư đã góp phần làm giảm thiểu các vụ án oan, sai, đã xuất hiện nhiều tấm gương luật sư xuất sắc trên diễn đàn “Pháp đình”, vị thế của luật sư trong xã hội cũng ngày càng được nâng cao.
Hoạt động tư vấn pháp luật và dịch vụ pháp lý khác của luật sư là một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh minh bạch, lành mạnh theo đúng pháp luật, đồng thời hỗ trợ tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển thị trường dịch vụ, tăng thu ngân sách, giải quyết việc làm; góp phần bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp cả ở nước ngoài. Sự tham gia tích cực của các luật sư trong dự án đầu tư, các giao dịch kinh doanh, thương mại không chỉ góp phần phát huy nội lực mà còn thu hút ngoại lực, thúc đẩy hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Vì vậy, hoạt động của luật sư được xem là loại hình dịch vụ trí tuệ cao cấp, cần tiếp tục chiếm lĩnh thị trường trong nước và mở rộng ra thị trường nước ngoài. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, luật sư Việt Nam đang có được triển vọng và cơ hội lớn, một số luật sư, tổ chức hành nghề luật sư của Việt Nam đã tạo được tín nhiệm trên thị trường dịch vụ pháp lý trong khu vực và quốc tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, tổ chức và hoạt động luật sư vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, yếu kém, cụ thể như sau:
Thứ nhất, số lượng luật sư hiện có ở nước ta so với dân số còn rất thấp (1 luật sư/14.500 người dân, trong khi tỷ lệ này ở Thái Lan là 1/1.526, Singapore là 1/1.000, Nhật Bản là 1/4.546, Pháp là 1/1.000, Mỹ là 1/250). Số lượng luật sư phát triển chưa cân đối giữa khu vực thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, trung du. Số lượng luật sư cũng chưa đủ để đáp ứng nhu cầu về dịch vụ pháp lý ngày càng tăng của cơ quan, tổ chức, cá nhân, ngay cả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng. Trên thực tế, chỉ khoảng 20% vụ án hình sự trong cả nước có sự tham gia của luật sư. Ở nhiều địa phương, đặc biệt là các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, số lượng luật sư không đủ để bào chữa trong các vụ án bắt buộc có sự tham gia của luật sư (án chỉ định) làm nhiều vụ án phải tạm hoãn, kéo dài, gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng. Sự thiếu vắng luật sư trong các vụ án hình sự đã không bảo đảm được nguyên tắc tranh tụng, quyền bào chữa của người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo, ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết vụ án.
Thứ hai, chất lượng của đội ngũ luật sư còn hạn chế, yếu kém chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội . Hiệu quả tham gia tố tụng của luật sư chưa cao, chưa có cơ chế bảo đảm cho luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp. Số luật sư có khả năng và kiến thức về tranh tụng quốc tế còn rất hạn chế, nên trong các tranh chấp thương mại với nước ngoài, phía Việt Nam vẫn chủ yếu phải thuê luật sư nước ngoài. Việc thuê luật sư nước ngoài khiến chúng ta không chủ động nắm bắt được diễn biến giải quyết tranh chấp; khó bảo đảm được vấn đề bảo mật thông tin, hơn nữa chi phí lại rất cao, không phù hợp với khả năng trang trải của các cơ quan, doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ ba, việc tuân thủ quy tắc đạo đức nghề nghiệp và kỷ luật hành nghề luật sư vẫn chưa được nhận thức một cách đầy đủ, chưa trở thành ý thức tự giác đối với mỗi cá nhân luật sư trong hành nghề và trong cuộc sống (trong thời gian qua đã có 60 trường hợp bị xử lý kỷ luật, trong đó có hơn 30 trường hợp bị xử lý kỷ luật bằng hình thức xoá tên khỏi danh sách luật sư của Đoàn). Bên cạnh các luật sư có tư tưởng, lập trường chính trị vững vàng, thì vẫn còn một số ít luật sư có biểu hiện lệch lạc trong nhận thức về quan điểm, lập trường chính trị.
Thứ tư, nhận thức của các cơ quan nhà nước, các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là Tòa án và Viện kiểm sát về vị trí, vai trò của luật sư chưa đầy đủ nên ý kiến phát biểu của luật sư chưa thực sự được tôn trọng, vì vậy, nội dung của các quyết định, các bản án chưa phản ánh đầy đủ quan điểm, lập luận của luật sư; tính tranh tụng thật sự tại phiên tòa chưa cao.
Thứ năm, Đoàn luật sư chưa thực hiện tốt vai trò tự quản của mình, chưa có biện pháp uốn nắn, chấn chỉnh kịp thời đối với những luật sư có biểu hiện giảm sút về đạo đức, tiêu cực về nhận thức chính trị.
Thứ sáu, công tác quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư, về cơ bản, đã có chuyển biến tích cực nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với tổ chức và hoạt động luật sư còn lúng túng, chưa chặt chẽ, chưa được hướng dẫn thống nhất.
2. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đẩy mạnh cải cách tư pháp thì vị trí, vai trò của luật sư trong xã hội ngày càng được nâng cao. Tình hình đó cũng đặt ra yêu cầu phải phát triển được đội ngũ luật sư đủ về số lượng, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, vững về bản lĩnh chính trị, trong sáng về đạo đức nghề nghiệp.
Trước yêu cầu của cải cách tư pháp, việc phát triển đủ số lượng luật sư để tham gia tranh tụng tại các phiên toàn và hỗ trợ pháp lý cho cơ quan, tổ chức, cá nhân là yêu cầu cấp thiết. Trong Kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương chỉ đạo khẩn trương đào tạo và phát triển đội ngũ luật sư cả về số lượng và chất lượng, phấn đấu đến năm 2020 cả nước có 18.000 – 20.000 luật sư. Đây là quyết tâm chính trị rất cao của Đảng, Nhà nước và sự nỗ lực của cả giới luật sư và toàn xã hội.
Xuất phát từ tính chất nghề luật sư là nghề tự do, các luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của khách hàng để nhận thù lao từ khách hàng, nên sự phát triển về số lượng của luật sư trước hết là nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của xã hội. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo nhiều cơ hội cho luật sư phát triển quan hệ hợp tác, giao lưu với các đối tác nước ngoài. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế của đất nước, nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của cơ quan, tổ chức, cá nhân, nhất là của doanh nghiệp cũng gia tăng nhanh chóng; số lượng vụ việc, khách hàng của luật sư sẽ nhiều hơn, đa dạng hơn; phạm vi hoạt động hành nghề của luật sư ngày càng được mở rộng.
Bên cạnh đó, yêu cầu của xã hội về chất lượng dịch vụ, trách nhiệm pháp lý, kỷ luật hành nghề đối với luật sư ngày càng cao; với việc thực hiện cam kết gia nhập WTO, sự cạnh tranh trên thị trường dịch vụ pháp lý trong nước và quốc tế ngày càng gay gắt.
Trong thời gian tới, đội ngũ luật sư ở nước ta ngày càng đông đảo, lĩnh vực và phạm vi hành nghề tác động đến tất cả các quan hệ trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Tính chất hành nghề luật sư, vì thế, cũng ngày càng trở nên phức tạp, đòi hỏi phải có định hướng phát triển đội ngũ luật sư phục vụ thời kỳ phát triển mới của đất nước, cụ thể như sau:
Một là, quán triệt, nâng cao nhận thức, đánh giá đúng vị trí, vai trò của luật sư và hành nghề luật sư trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa phương và cả nước; đẩy mạnh công tác tuyên truyền trong đảng viên và nhân dân về luật sư và hành nghề luật sư; tăng cường trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư trong việc phát triển đội ngũ và nâng cao chất lượng của tổ chức và hoạt động luật sư.
Hai là, củng cố, kiện toàn tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, nhân sự chủ chốt của các đoàn luật sư; tạo điều kiện hỗ trợ ban đầu về cơ sở vật chất, trang thiết bị hoạt động cho các tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư.
Ba là, xây dựng và phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, vững vàng về bản lĩnh chính trị, trong sáng về đạo đức nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và nhu cầu của xã hội, bảo đảm có ngày càng nhiều các luật sư am hiểu pháp luật và tập quán thương mại quốc tế, thông thạo ngoại ngữ, giỏi kỹ năng hành nghề luật sư, có trình độ ngang tầm với các luật sư trong khu vực.
Bốn là, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế về luật sư và hành nghề luật sư; xây dựng cơ chế bảo đảm cho luật sư thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ của mình theo đúng quy định của pháp luật, nâng cao chất lượng tranh tụng của luật sư tại phiên tòa; có chính sách thúc đẩy hoạt động tư vấn pháp luật của luật sư, trong đó quan tâm thích đáng đến hoạt động tư vấn pháp luật phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế; khuyến khích luật sư tham gia công tác trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đối tượng chính sách và các công tác xã hội khác.
Năm là, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với tổ chức và hoạt động của luật sư; chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra để bảo đảm hoạt động của luật sư được thực hiện theo đúng đường lối, quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước; kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư.
Sáu là, đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của luật sư. Nâng cao chất lượng, phát huy vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng trong tổ chức xã hội - nghề nghiệp và tổ chức hành nghề của luật sư. Củng cố, kiện toàn tổ chức đảng trong các đoàn luật sư. Tăng cường công tác bồi dưỡng, phát triển đảng viên, đặc biệt đối với các luật sư trẻ; chú trọng công tác bồi dưỡng, giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ luật sư; phát huy tinh thần gương mẫu của luật sư là đảng viên trong hoạt động nghề nghiệp và trong việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Bảy là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý đối với hoạt động hợp tác quốc tế của các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, tạo điều kiện cho tổ chức luật sư và luật sư Việt Nam hội nhập, giao lưu quốc tế trên cơ sở bảo đảm tuân thủ đúng đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Share this post :

Đăng nhận xét

Tin tức

 
Support : Vietnamlawyer | Svlaw | Hoidapluatsu
Copyright © 2011. Trang tin điện tử Lớp Luật sư - All Rights Reserved
Template Created by Creating Website Published by Nam Nguyen Gia
Proudly powered by Blogger